Nguyễn Trọng Tạo
Làng quê của nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo |
màng…” (Chung Quân), “Làng tôi xanh bóng tre từng tiếng chuông ban chiều tiếng chuông nhà thờ rung, Đời đang vui đồng quê yêu dấu bóng cau với con thuyền, một dòng sông” (Văn Cao), “Làng tôi sau lũy tre mờ xa, Tình quê yêu thương những nếp nhà” (Hồ Bắc)… Vâng, những câu hát ấy đã nâng bước lớp trẻ chúng tôi hòa vào mọi làng quê đất nước. Dù năm tháng chiến tranh đạn bom ác liệt, nhiều ngôi làng bị đốt cháy tan hoang, nhưng những câu hát êm đềm ấy thì mãi mãi thắp sáng trái tim con người luôn hướng về làng quê yêu dấu.
Tôi trở về cuộc sống thanh bình sau một cuộc chiến tranh dài, không hiểu là
mình đã thành Nhà thơ, thành Nhạc sĩ từ bao giờ. Thi ca và âm nhạc như một cứu
cánh trong những tháng ngày luôn cận kề cái chết. Chính vì vậy mà chúng tôi đã
sáng tác ra thơ ra nhạc để tâm hồn luôn mở cánh. Rồi đến một ngày, tôi thấy 2
bài hát của mình được bình chọn trong 20 bài hát hay về nông thôn ViệtNamhơn 60
năm qua, đó là “Làng quan họ quê tôi” và “Khúc hát sông quê”. Vậy là đứa con bé
nhỏ của làng đã không phụ bóng mát chở che của tre xanh, mái rạ…
Nếu có người nước ngoài vì khâm phục sức sống của dân tộc trồng lúa nước này
mà đặt ra câu hỏi “Tại sao Việt Nam?” thi chính tôi cũng đã có lần tự ngạc
nhiên về mình mà đặt ra câu hỏi “Tại sao Làng quan họ…?”. Tôi không phải người
làng quan họ, cũng chưa đến xứ quan họ lần nào mà lại nhận vơ “Làng quan họ quê
tôi”? Vâng, đúng vậy, tôi đã coi Làng quan họ như chính làng mình và đã viết ra
bài hát ấy 16 năm trước khi đặt chân lên đất Bắc Ninh.
Tại sao tôi lại coi Làng quan họ như chính làng mình? Tôi mê những điệu hát
dân ca quan họ. Từ thời máy bay Mỹ ném bom xuống những trận địa pháo phòng
không đặt ở làng tôi, tôi đã được nghe những anh chị văn công xung kích của
quân đội đến làng hát cho bộ đội và dân làng tôi nghe những điệu hát quan họ
mượt mà tơ lụa. Một liền chị trẻ đẹp đội nón ba tầm mặc áo tứ thân đẹp mê hồn
đã hát “Bèo dạt mây trôi” và “Người ở đừng về”. Quan họ chinh phục tôi từ đó.
Mỗi khi nghĩ đến quan họ, tôi lại thấy hiện lên sông Cầu giống dải bao xanh mà
liền chị đã thắt ngang lưng thuở ấy. Và tôi sợ cái làng quê tươi đẹp của chị
cũng sẽ bị bom Mỹ dội xuống tan hoang như làng tôi. Và tôi mơ thấy làng quan họ
của chị luôn rộn rã hội hè dưới rợp bóng cây xanh cùng những lời hát long lanh
cất ra từ đôi môi “lúng liếng” của chị… Tôi cũng bị quan họ chinh phục bởi phim
“Đến hẹn lại lên”. Vâng, bộ phim ấy đã dấy lên trong tôi tình yêu thương những
con người xứ ấy, những con người suốt đời làm lụng và ca hát, nhưng bao biến
động đã vỗ sóng lên số phận không may của họ. Tôi đã mê những câu thơ đẹp và
đau đến nao lòng của “ông Hoàng thơ Kinh Bắc” Hoàng Cầm khi được đọc sớm bản
thảo “Về Kinh Bắc” của ông: “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ
quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng
sang sông…” Nhưng tôi đâu biết một ngày mình sẽ viết ra bài hát “Làng quan
họ quê tôi”!
Cho đến khi nhà thơ Nguyễn Phan Hách đưa tôi bài thơ “Làng quan họ” của anh…
Hôm ấy tôi đến làm việc với nhà xuất bản Tác Phẩm Mới và tình cờ gặp lại anh
Hách mới chuyển về làm việc ở đấy. Anh rất vui vì đêm qua tình cờ nghe được một
bài hát mới của tôi, bài “Nụ cười ViệtNam”, phổ thơ Chính Hữu. Có lẽ vì thế mà
anh nảy ra ý định nhờ tôi phổ nhạc cho bài thơ của anh. Để cho chắc hơn, anh
ngồi chép lại bài thơ rồi đưa cho tôi với một lời nhờ như áp đặt: “Bài này phổ
nhạc được ông ạ. Ông phổ cho tôi nhé”. Tôi nghe toát mồ hôi và lại hơi buồn
cười vì sự hồn nhiên của anh. Thơ thì mênh mông mà mấy bài được phổ nhạc? Nhạc
sĩ thì nhiều như lá rừng nhưng có phải ai cũng phổ được bài thơ của anh? Tôi
thấy ngại, nhưng cũng vui vẻ hẹn anh: “Vâng, tôi sẽ xem và nếu phổ được tôi sẽ
hát cho ông nghe để xin ý kiến nhà thơ”. Chia tay anh, tôi cũng quên mất bài
thơ còn cất trong túi áo. Mấy ngày sau, tôi đem áo ra giặt. Bên cái giếng xây
gạch sứt mẻ của gia đình bà Tâm mù trong làng Khương Hạ (Hà Nội) nơi các nhà
văn quân đội chúng tôi đang ở nhờ, tôi móc túi ra bài thơ anh Hách gửi và đọc
lại. Lúc ấy từ cái loa làng phát ra những điệu hát quan họ mê hồn. Tôi bỗng
thấy bài thơ đang trở thành bài hát trong đầu tôi. Và câu nhạc mở đầu đã hiện
lên. Tôi bỏ lại chậu áo quần bên giếng, vào nhà lấy giấy bút ngồi phổ nhạc cho
thơ. Được nửa bài hát thì kẻng báo giờ ăn cơm tập thể. Nhà thơ Nguyễn Hoa ở
cùng nhà với tôi từ đâu về lấy bát đũa định rủ tôi đi ăn cơm, nhưng thấy tôi
đang say sáng tác, anh lặng lẽ đi một mình. Phải nói là Nguyễn Hoa rất hiểu
tôi, anh sợ tôi sẽ dang dở mạch cảm xúc. Còn tôi thì hiểu rằng, Nguyễn Hoa sẽ
lấy suất cơm lính về cho tôi. Thế là yên tâm tôi ngồi viết một mạch. Khi tôi
viết nốt nhạc kết thúc thì Nguyễn Hoa cũng đưa cơm về. Tôi bảo xong rồi, và cám
ơn bạn. Anh cười và bảo hát xem nào? Tôi hát cho anh nghe “Làng quan họ quê
tôi”. Anh lặng người run rẩy trong xúc động, rồi nói: “Tôi không biết nhạc.
Nhìn vào bản nhạc chỉ thấy như giá đỗ. Nhưng bài này hay lắm Tạo ạ”. Lời nhận
xét đầu tiên của người bạn khiến tôi rất vui. Lúc đó là một chiều tháng 9 năm
1978.
Ca sĩ đầu tiên hát “Làng quan họ quê tôi” là Kim Phúc, lúc đó mới
18 tuổi đang học năm thứ nhất tại trường Âm nhạc Việt Nam, và được nghệ sĩ Tôn
Thất Triêm đệm đàn trong đêm giao lưu của các nhà thơ quân đội với trường. Tiết
mục được hoan nghênh nhiệt liệt, khiến tôi cũng bất ngờ. Nhưng người thu thanh
đầu tiên bài hát này là ca sĩ Thanh Hoa (hát cùng tốp nữ), và được phát sóng
trên đài TNVN vào tháng 6.1979. Từ đó nó trở thành bài hát quen thuộc của người
yêu nhạc, rồi được dàn nhạc giao hưởng Lepzich trình diễn trong tuần văn hóa VN
tại Đức, được hãng JVC đưa vào chương trinh karaoke của Nhật. Bài hát này được
nhiều ca sĩ thu thanh, thu hình, sản xuất đĩa nhạc. Gần đây nhất là Anh Thơ,
Trọng Tấn, Trung Anh… Nhiều biên đạo múa cũng lấy nhạc Làng Quan họ quê tôi dàn
dựng múa.
Có người thắc mắc với tôi vì sao lời ca trong các bản thu thanh có chỗ khác
nhau? Và lời nào là “chuẩn”? Có một thay đổi quan trọng là câu hát gốc “Làng
Quan họ quê tôi, những năm bom Mỹ thả” được đổi thành “Làng Quan họ quê tôi,
tiếng ca xanh ước hẹn”. Đó là do Nhà xuất bản Âm nhạc khi thu đĩa hát (1984) đã
yêu cầu tôi sửa lại để phát hành ra quốc tế thuận lợi hơn?! Và tôi bất đắc dĩ
phải sửa lại. Tuy nhiên, sau đó nhiều ca sĩ vẫn hát theo như bản nhạc ban đầu
công bố, và tôi thích được hát như bản đầu tiên này. Còn một số từ do ca sĩ
nhầm nên đã làm sai lạc đi, như “Con sông Cầu làm bao xanh, ngang lưng làng
Quan họ xanh xanh” bị hát sai thành “Con sông Cầu làng bao quanh, ngang
lưng làng Quan họ xanh xanh”; câu “Chị cả tựa mạn thuyền, anh hai ngồi bẻ
lái” bị hát sai thành “Chị cả tựa mạn thuyền, anh hai ngồi thổi sáo”… thì
cũng là tam sao thất bản vậy. Điều quan trọng là bài hát đã đi vào lòng người,
nó làm cho tâm hồn người ta đẹp hơn, yêu đời hơn, yêu quê hương đất nước hơn”.
Trường hợp tôi viết bài hát “Khúc hát sông quê” cũng là một bất
ngờ.
Năm 2002 hội Nhạc sĩ VN tổ chức trại sáng tác hợp xướng ở Vũng Tàu, tôi tham
gia trại và dồn thời gian viết hợp xướng “Hạt bụi”. Trong khi đang bí thì ông
bạn thơ Lê Huy Mậu rủ đi nhậu. Nhậu khuya lắm mới về. Trước khi ra về, Lê Huy
Mậu đưa tôi mấy bài thơ nhờ xem và đưa in báo Văn Nghệ cho anh. Tôi về phòng
đóng cửa ngủ vùi. Sáng dậy chạy ra biển tắm cho “giã rượu”. Khi trở về, tôi
thấy trên bàn những bài thơ của Mậu. Chợt nhớ là phải đọc xem sao. Tôi ngồi vào
bàn đọc, và khi đọc đến bài thơ dài “Khúc hát sông quê” thì lặng người xúc
động. Thì ra quê Mậu cũng giống quê tôi. Cũng con sông đôi bờ phù sa. Cũng
những kiếp người lam lũ. Cũng lòng yêu thương và nhân hậu.
quê hương ta nghèo lắm
ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn
ta mổ lợn
con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt
cá dưới sông cũng có tết như người
ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn
ta mổ lợn
con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt
cá dưới sông cũng có tết như người
Những cậu thơ khiến tôi ứa nước mắt.
Tôi đọc lại bài thơ và chính những câu thơ đầu tiên đã ngân lên âm nhạc.
“Quá nửa đời phiêu dạt/ ta lại về úp mặt vào sông quê”. Rồi tôi đọc lần
thứ ba, chọn lọc và viết lại một số câu thơ của anh cho hợp với sự phát triển
của âm nhạc. Lần này thì toàn bộ bài hát đã ngân lên trong tôi. Tôi lấy giấy
nhạc ra, và chỉ cần chép lại bản nhạc đã lưu vào bộ nhớ trong đầu tôi. Trong
bản thảo đầu tiên của bài hát này được ghi “Vũng Tàu, ngày 2.9.2002”. Lúc ấy
mới gần 8 giờ sáng.
Tôi vui mừng gọi điện thông báo cho Lê Huy Mậu và bảo anh đến nghe rồi cùng
đi ăn sáng. Mậu đến, ngồi trên chiếc giường trải drap trắng phẳng lì. Tôi pha
ấm trà nóng rồi hát cho Mậu nghe. Mậu nghe chăm chú, đến câu kết thúc thì bất
ngờ anh nằm ngã ngửa trên giường, hai tay giang ra như một cây thánh giá. Tôi
nhìn mặt anh như sưng lên với tình cảm khó tả. Tôi hỏi: “Sao ông lại nằm đuỗn
mặt ra thế? Phổ vậy được không?”. Chợt anh ngồi vùng dậy, và nói một câu khá
bất ngờ với tôi: “Anh làm tôi nổi tiếng đến nơi rồi! Bài hát này tôi tin là mọi
người sẽ hát…”. Chúng tôi đi ăn sáng cho đến chiều tối thì nhận được điện của
nhóm ca sĩ Hà Nội đang hát ở Vũng Tàu. Cuộc gặp gỡ đêm ấy bên bờ biển, NSND Thu
Hiền đã cầm bản nhạc hát cho mọi người nghe và chị nói vui “Anh cho Thu Hiền
độc quyền bài này nhé”. Sau đó Thu Hiền thu thanh ở Sài Gòn và lấy tên Allbum
là “Khúc hát sông quê”.
Khi trở lại Hà Nội, tôi đưa bài này cho VTV và chọn giọng hát Anh Thơ. Tôi
có nghe Anh Thơ hát vài lần và nghĩ giọng Anh Thơ sẽ hợp với bài hát này, sự
trong sáng và chuẩn mực sẽ làm cho bài hát đẹp hơn. Tôi đem bản nhạc đến nhà
cho Anh Thơ. Anh Thơ vừa nấu bếp vừa tập. Khi thu thanh, các kỹ thuật viên của
đài vì quá thích nên đã “cóp” đĩa về nhà nghe. Và bài hát được giới thiệu lần
đầu tiên trong chương trình Tác phẩm mới của VTV năm đó. Tôi không ngờ nó lại
được công chúng yêu chuộng đến thế. Hầu như suốt chục năm qua, ngày nào bài hát
này cũng được hát. Tôi đến châu Âu, châu Mỹ vẫn được nghe “Khúc hát sông quê”
với thật nhiệu thiện cảm.
Đời một người sáng tác, hạnh phúc nhất là tác phẩm của mình được công chúng
đón nhận và yêu thích. Nhưng hạnh phúc nhất với tôi là nó lại được người làng
tôi tâm đắc. Vâng, làng quê, nơi cất dấu và hiến dâng cho ta bao tài sản tinh
thần vô giá… Xin mãi mãi cảm tạ làng quê!…
Hà
Nội, 12.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét